Qua 70 năm xây dựng và phát triển ngành thủy lợi, đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý lĩnh vực thủy lợi dần được hoàn chỉnh với việc Nhà nước đã ban hành Luật Tài nguyên nước, Luật Đê điều, Luật Phòng chống thiên tai, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về thuỷ lợi, phòng chống thiên tai từ cấp tỉnh đến cấp huyện tương đối hoàn thiện: Ở cấp tỉnh có Chi cục Thuỷ lợi, Chi cục Đê điều và phòng chống lụt bão trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thuỷ lợi, đê điều, phòng chống thiên tai trên địa bàn toàn tỉnh. Ở cấp huyện có phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc phòng Kinh tế) thực hiện chức năng của ngành trên địa bàn huyện.
Bộ máy phòng chống thiên tai có Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã; Chủ tịch UBND các cấp đồng thời là Trưởng Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
Tổ chức quản lý, vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi có 01 doanh nghiệp (Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên khai thác công trình thuỷ lợi Phú Thọ) và 229 hợp tác xã trên địa bàn 13 huyện, thành, thị.
Trạm bơm tiêu Đông Nam Việt Trì - Một trong những công trình tiêu biểu của ngành Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ
|
Hệ thống công trình thuỷ lợi có 1.341 hồ, đập, phai dâng; 266 trạm bơm; 3.907 km kênh mương (đã kiên cố hoá 1.268 km); 510 km đê từ cấp I đến cấp V, 377 cống dưới đê, 80 tuyến kè chống sạt lở bờ vở sông với tổng chiều dài 93 km, 1 hệ thống kè mỏ hàn.
Hệ thống công trình thuỷ lợi đã góp phần quan trọng để tăng diện tích gieo trồng, tăng thời vụ, cải tạo đất, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và sản xuất hàng hoá; đồng thời có vai trò quyết định trong phòng chống lũ, chống úng ngập cho khu vực đô thị và nông thôn, đặc biệt là phòng chống hạn hán.
Công tác phòng chống thiên tai đã chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kịp thời ứng phó và khắc phục nhanh có hiệu quả, đã giảm đáng kể thiệt hại về người và tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
Giai đoạn hiện nay, trước tình hình biến đổi khí hậu qua từng năm, thời tiết có nhiều diễn biến cực đoan, mưa lũ không theo quy luật; tác động tiêu cực của việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thượng nguồn các sông lớn, tình trạng khai thác cát sỏi ở các lòng sông, chặt phá rừng đầu nguồn; sức ép của phát triển kinh tế - xã hội đi kèm với mức độ gia tăng các vi phạm hành lang bảo vệ công trình thủy lợi, đê điều, phòng chống lụt bão, bờ bãi sông…; đồng thời thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành nông nghiệp là phải tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; nhiệm vụ lĩnh vực thuỷ lợi hết sức nặng nề:
Một là, phải nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi: Hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao trình độ, hiệu quả làm việc của cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về thủy lợi ở cả 3 cấp. Nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng thuỷ lợi gắn với xây dựng đường giao thông nội đồng, thực hiện tưới tiết kiệm nước. Rà soát, củng cố các hợp tác xã trên cơ sở tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động, đặc biệt về công tác quản lý, vận hành, khai thác công trình thủy lợi. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh hệ thống công trình thuỷ lợi, đê điều. Khuyến khích mở rộng các hoạt động cung cấp các dịch vụ có thu, ưu tiên cấp nước cho tưới lúa, cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao.
Hai là, phát triển tưới cho cây trồng cạn: Xây dựng và nhân rộng các mô hình tưới tiên tiến, tiết kiệm nước nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho một số loại cây trồng có thế mạnh của tỉnh như cây chè, cây bưởi, các vùng rau an toàn. Tận dụng tối đa nguồn nước từ các hồ chứa có cột nước cao để kết hợp tưới lúa và cây trồng cạn.
Ba là, phát triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản: Tại những khu vực có tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản, qui hoạch lại đồng ruộng, đắp bờ vùng, xây dựng hệ thống cấp, thoát nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh, bền vững.
Bốn là, nâng cao năng lực phòng chống thiên tai: Tiếp tục thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong kế hoạch hành động thực hiện chiến lược phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai; xây dựng, triển khai kế hoạch quản lý rủi ro thiên tai theo cấp độ rủi ro thiên tai; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo lũ sông, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất; nâng cao nhận thức và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. Nâng cao mức đảm bảo an toàn hồ đập và đảm bảo an toàn cho khu vực hạ lưu đập. Nâng cao năng lực quản lý hệ thống đê sông, đê ngòi, quản lý sạt lở để giải quyết kịp thời từ khi xuất hiện. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các cấp. Sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả quĩ phòng chống thiên tai của tỉnh.
Năm là, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong thiết kế, thi công quản lý, vận hành, khai thác công trình thủy lợi, công trình đê điều, công trình nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn theo phương châm đi tắt, đón đầu, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện của tỉnh.
Để đạt được những mục tiêu trên trong lĩnh vực thủy lợi, rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ương; sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; sự chủ động, tích cực của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; sự phối hợp, vào cuộc của các sở, ban, ngành, các huyện, thành, thị và các đơn vị có liên quan.
Tác giả bài viết: Trần Quốc Bình