day

,

00

/

month

/

0000

Tiếng Việt

English

Truyền thống lịch sử trong tiếp biến và giao lưu văn hóa Việt - Mường

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, nền Văn hóa Hòa Bình là nền văn hóa tiền sử nổi tiếng ở khu vực Đông Nam Á có niên đại cách đây khoảng 18.000 năm đến 7.500 năm. Thuật ngữ này đã được bà M.Colani một nhà khảo cổ học người Pháp đã tiến hành điều tra thăm dò khảo sát bắt đầu từ năm 1926 tại Hòa Bình, Ninh Bình cho tới Quảng Bình. Đến năm 1931, tại Hội nghị các nhà Tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất vào ngày 30 tháng 1 năm 1932 bà chính thức công bố và được các nhà khảo cổ học công nhận Văn hóa Hòa Bình là một nền văn hóa tiền sử của loài người có tính phổ cập ở một vùng rộng lớn của khu vực Bắc Đông Dương.

Văn hóa Hòa Bình phân bố dày đặc và phong phú ở Việt Nam với trên 130 di tích, nhiều nhất ở Hòa Bình (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) với trên 70 điểm, tập trung chủ yếu ở khu vực của cư dân Mường tại Tân Lạc, Lạc Sơn, Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy, Yên Thủy, Cao Phong. Ở Mai Châu chỉ có rải rác như ở hang Khoài (xã Co Lương) và hang Phưởng Quyền (xã Mai Hịch) hiện nay đang thăm dò khảo sát. 

Tỉnh Phú Thọ hiện nay có vị trí cực kỳ quan trọng ở cửa ngõ vùng Tây Bắc tổ quốc. Gồm có 50 dân tộc anh em sinh sống: Kinh (Việt), Mường, Thái, Tày, Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Nùng, Mông, cùng một số dân tộc khác. Trong đó, người Mường tập trung chủ yếu ở khu vực Hòa Bình (chiếm trên 60% dân số, nhiều gần gấp ba lần người Kinh 27%, khoảng gần 1,5 triệu người), vùng núi phía Tây Nam của khu vực Phú Thọ (với trên 200 nghìn người) và ở vùng núi Tam Đảo của khu vực Vĩnh Phúc (với gần 60 nghìn người).

Dựa trên những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa xã hội… các nhà sử học đã xếp người Việt và người Mường thành một nhóm “Việt - Mường”; đồng thời người Mường cư trú liền kề với trung tâm của nền văn minh sông Hồng. Do vậy việc giao thoa, tiếp biến giao lưu văn hóa từ thời cổ đại đã để lại nhiều dấu ấn.

Trình diễn múa trống đu tại một câu lạc bộ văn hóa dân gian Mường

Vài nét về người Việt (Kinh), Mường ở tỉnh Phú Thọ

Người Mường chủ yếu cư trú ở các thung lũng, ven bìa rừng, chân đồi núi, nơi gần nguồn nước tự nhiên (sông, suối, đầm, hồ,...) để tiện lợi cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Đơn vị cư trú cơ sở của người Mường là làng, tương đương với làng của người Kinh ở Hòa Bình và các tỉnh miền xuôi. Mỗi làng có một người đàn ông đứng đầu cai quản mọi công việc có tính chất hành chính, tín ngưỡng trong cộng đồng. Người này thường thuộc một dòng họ quyền thế trong làng, duy trì quyền lực của dòng họ bằng hình thức cha truyền con nối. Trong quá khứ, Hòa Bình nổi tiếng với 4 Mường cổ: Bi, Vang, Thàng, Động. Đứng đầu mỗi Mường là một chức sắc gọi là “Lang cun”, ông ta mặc nhiên được hưởng quyền thế tập của một dòng họ quý tộc theo chế độ phụ quyền có thế lực nhất trong vùng.

Người Kinh sinh sống tương tự đồng bào của mình tại các thành thị miền xuôi từ nhà ở, trang phục, ẩm thực đến phong tục, tập quán. Ngoài việc vẫn giữ mối liên hệ với quê hương bản quán, giữ gìn phong tục cổ truyền như ở miền xuôi, người Kinh ở Hòa Bình nói chung cũng tham gia vào đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc trong vùng. Nhiều lễ, tết, hội hè dân gian ở Hòa Bình đã trở thành sinh hoạt văn hóa chung của đồng bào các dân tộc và người Kinh.

Từ thời sơ sử, thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang gồm 15 bộ thì Hòa Bình ở phía Nam bộ Gia Ninh, nơi sinh tụ chính của người Mường và người Kinh. Thời ấy đời sống của hai tộc người này rất gần gũi nhau.

Đến thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm, đặc trưng của xã hội Hòa Bình có thể coi là xã hội Mường (vì cộng đồng Lạc Việt đã phân hóa, người Kinh di cư xuống đồng bằng và miền Trung) là sự tồn tại của chế độ “nhà Lang” hay “quan Lang” với tên gọi “Lang đạo”. Nhằm củng cố trật tự xã hội từ bản, làng đến xã, huyện, mường, châu, Nhà Lang đã ban hành các luật lệ buộc mọi thành viên trong cộng đồng phải tuân theo.

Về văn hóa, nhất là về văn học, người Mường nổi tiếng với sử thi Đẻ đất đẻ nước - một sử thi dân gian đồ sộ, mang tầm vóc anh hùng ca và phẩm chất sử thi hoành tráng như một kho bách khoa toàn thư chứa đựng tri thức của người Mường về thế giới tự nhiên và xã hội từ thuở hồng hoang đến khi xã hội con người bắt đầu hình thành, phân chia và đấu tranh giai cấp. 

Cùng với huyền thoại Đẻ đất đẻ nước, văn học dân gian của người Mường cũng rất phong phú, gồm nhiều thể loại nhưng đặc sắc hơn cả là những truyện thơ tình lãng mạn và bi thương, như Nàng Nga Hai Mối, Út Lót - Hồ Liêu, Vườn hoa núi Cối,... các câu chuyện tình đó phản ánh khát vọng tình yêu và hôn nhân tự do của nam nữ thanh niên Mường bị tục lệ lạc hậu trói buộc, một hiện tượng hiếm gặp trong thể tài truyện thơ tình dân gian ở nước ta từ xưa đến nay.

Người Mường nằm trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, thuộc ngữ hệ Đông Nam Á; trước đây, họ tự gọi mình là Mol, Mual, Mon, Moi..., đều có nghĩa là Người. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, khi nói đến “Mường” ở vùng đất Hòa Bình, là nói đến một địa phương, một khu vực, một vùng, hay một khu vực hành chính cụ thể, có khi tương đương một châu (huyện) như: “Mường Bi”, “Mường Vang”, “Mường Thàng”, “Mường Động”... với sự xếp hạng theo truyền tụng dân gian: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. Trải qua một thời gian dài, “Mường” đã trở thành tên gọi chính thức của một dân tộc - dân tộc Mường.

Sự tương đồng và tiếp biến giao lưu văn hóa của người Việt, Mường

Vũ trụ luận của người Việt và người Mường, đều có sự nhìn nhận gần như tương đồng, đó là cái trục bất biến: Trời - Đất - Người. Trời bao giờ cũng là đấng siêu nhiên cao nhất chi phối tất cả. Con người là một sản phẩm của vũ trụ, là tinh hoa của tạo hóa, con người luôn nhận thức, thích nghi thay đổi để tồn tại phát triển. Trong thời kỳ sơ khai đã phải gắn mình vào những thế lực siêu nhiên đó, như Ông Trời, Vua Trời, Diêm Vương, Vua Khú, thiên mệnh, số mệnh, hồn vía, vạn vật có tinh (Tô tem)… thế giới siêu nhiên đó chính là lớp hào quang của thế giới thực phản ánh trong tư duy nguyên thủy của con người.

Người Mường và người Việt quan niệm con người đều có hồn vía cần phải chăm sóc và kiêng kỵ. Người Việt thì cho rằng con người có ba linh hồn và bảy vía, còn người Mường thì cho rằng con người có rất nhiều hồn, trong hồn gồm có rất nhiều vía. Như lễ làm vía sang (là woải khang), làm vía mạnh (là woải thẳm), lễ cầu mát mẻ, cầu bình yên...

Cả hai dân tộc giải thích về nguồn gốc tổ tiên mình gần giống nhau. Người Việt là truyền thuyết về Lạc Long Quân (Rồng) và Âu Cơ (tiên) gặp nhau đẻ ra một bọc 100 trứng, nở ra 100 người con, chia ra 50 người lên rừng, 50 người xuống biển sinh cơ lập nghiệp. Còn người Mường qua sử thi thần thoại “Đẻ đất, đẻ nước” thì cho rằng tổ tiên mình bắt nguồn từ “Chim Ây”, cái “Ứa” đẻ ra trứng “Điếng” cũng như bọc trăm trứng ở núi Hang Hao thuộc Mường Thàng (Cao Phong). Các trứng đẻ ra muôn loài, con người được sinh ra từ trứng thiêng, và hơn thế khi trứng thiêng nở ra Đá Cái, Đá Cần, nàng Dạ Dịt, đẻ ra các loài muông thú, chim chóc... còn có cả người Việt (Đáo), người Lào, người Ngô...

Giống như người Việt, người Mường có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Họ lập bàn thờ và đặt lên đó các bát hương cho đến bốn đời. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình mà người ta làm bàn thờ to, nhỏ, cầu kỳ hay đơn giản khác nhau. Đồ thờ ở trên bàn thờ cũng vậy, nhà giàu thì trang hoàng như các nhà giàu của người Kinh ở dưới xuôi. Bàn thờ dù to hay nhỏ, nhưng đều được bố trí ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà.

Như người Việt, thờ Thành hoàng làng cũng là một tín ngưỡng phổ biến của người Mường ở Hòa Bình. Thành hoàng được coi là vị thần bảo trợ chung cho bản Mường, che chở, đỡ đầu cho bản Mường.

Đối với người Mường, Thành hoàng làng có thể là một hay nhiều vị, được thờ tại quán, miếu, hay đình; sau này, khi đời sống cao hơn, các đền cũng được xây dựng. Đền có thể xây gạch lợp ngói, nhưng một số nơi chưa có điều kiện thì làm bằng tre, gỗ...

Theo tục lệ xưa, người Mường thường thờ những hòn đá có hình thù kỳ lạ, liên tưởng đó là các vị thần, thánh đã giúp con người chinh phục thiên nhiên. Tục thờ đá được thể hiện rõ nét nhất ở trong lễ mừng nhà mới với các ông đầu rau (hòn nục chủ và hai hòn nục treo), thờ các vị chư thần thổ địa tại chùa Khánh (Cao Phong).

Theo các nhà nghiên cứu, hằng năm, tại miếu Thành Hoàng ở các vùng Mường Hòa Bình thường diễn ra ba lễ chính:

- Lễ Khai hạ vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch (ngày 7 tháng 3 lịch Mường Bi) với ý nghĩa là ngày kết thúc mọi công việc của năm cũ, mở đầu cho sự tốt đẹp của năm mới; cùng với việc khấn Đức Thánh Tản Viên Ba Vì và thần Thành Hoàng, dân làng cầu chúc năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người, súc vật đều mạnh khỏe.

- Lễ Xuống đồng (khuống mùa) là lễ mở đường cày đầu tiên. Trong làng chọn người mạnh khỏe, siêng năng, làm ăn khấm khá và làm lễ xuống đồng đầu tiên, khấn Thành Hoàng phù hộ để dân làng làm ăn thuận lợi.

- Lễ Rửa lá lúa (thửa lá lọ): Cứ đến độ lúa thì con gái, cũng như các lễ trên, các gia đình góp gạo, gà... làm mâm cơm dâng lên cúng Thành Hoàng, thờ bông cơm vía lúa, cầu mong tránh được sâu bọ phá hoại, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no hạnh phúc... Sau lễ cúng chung của cả làng xong, mỗi nhà mang cây nêu của mình đã được chuẩn bị sẵn từ trước ra cắm (biêu) ở nơi đầu nước con ruộng của mình biểu thị một sự nhận thiêng không cho lực lượng nào phá hoại.

Như vậy, có thể thấy, các vị Thần Thành Hoàng ở các quán, đền, miếu trên đất Mường ở Hòa Bình, được thờ rất phong phú; biểu hiện khá đầy đủ tín ngưỡng dân gian của người Mường: Thờ nhân thần, thờ thần đá, thần nước, thần cây... với những vết tích còn thấy được cả ở vùng người Kinh dưới xuôi. Điều này cho thấy có sự gần gũi giữa người Mường và người Kinh.

Tương tự như vậy, tín ngưỡng thờ Thần Đất (của gia đình, của xóm, của làng) ở người Mường cũng phổ biến như ở người Kinh, với tâm thức “đất có thổ công, sông có hà bá” trong dân gian.

Người Mường ở Hòa Bình còn có những tín ngưỡng dân gian liên quan đến vòng đời của con người và với việc thờ cúng những người bảo vệ linh hồn của người sống; những vị thần bảo vệ thân thể cho người sống, những tín ngưỡng liên quan đến hôn nhân, tang lễ, sinh nở và những việc diễn ra xung quanh cuộc sống của con người, của dòng họ,...

Điều này, một mặt cho thấy sự phong phú trong cuộc sống tâm linh của người Mường, mặt khác cho thấy vũ trụ quan, nhân sinh quan của người Mường gắn bó chặt chẽ với môi trường địa lý tự nhiên và đời sống xã hội của họ.

Như vậy, có thể thấy, những loại hình tín ngưỡng thờ cúng dân gian của người Mường (ở cả trong phạm vi gia đình và cộng đồng) là rất phong phú, đa dạng, phản ánh những giai đoạn phát triển của tư duy dân tộc Mường, với những nét chung của dân tộc Việt (có nguồn gốc chung với dân tộc Mường) và những nét khác biệt (nét riêng) của dân tộc ấy, do môi trường cảnh quan và ý thức tộc người quy định.

Tựu chung lại, vùng đất của tỉnh Phú Thọ ngày nay, từ xa xưa đã có những điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế thương mại; đồng thời, cũng là cửa ngõ để các tôn giáo từ các địa bàn lân cận xâm nhập vào vùng Tây Bắc nước ta nói chung và các địa phương của tỉnh nói riêng.