day
,
00
/
month
/
0000
Tiếng Việt
English
Thứ Tư, 10/09/2025, 10:23 (GMT+7)
Trước các yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt về việc giảm phát thải khí CO2, Việt Nam và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đã đề ra chiến lược lâu dài để làm giàu nguồn carbon, hạn chế tối đa những tác động xấu tới môi trường sống, làm cho trái đất “xanh” và thân thiện hơn. Trong đó, tạo tín chỉ carbon và hình thành thị trường carbon là những nội dung rất cụ thể, thiết thực với nhiều lợi ích.
Tín chỉ carbon và thị trường carbon
Tín chỉ carbon (còn gọi là chứng chỉ carbon hoặc carbon credits): Là chứng nhận cho việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí carbon dioxide (CO2). Mỗi tín chỉ đại diện cho việc giảm một tấn CO2 hoặc một lượng khí nhà kính tương đương với một tấn CO2. Mục tiêu cuối cùng của tín chỉ carbon là giảm phát thải khí nhà kính vào khí quyển. Bằng cách thúc đẩy việc giảm phát thải và khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng sạch, chúng đóng góp vào bảo vệ môi trường và kiểm soát biến đổi khí hậu.
Các tín chỉ carbon tự nhiên được tạo ra chủ yếu từ các dự án từ rừng như: Bảo vệ rừng tự nhiên, hạn chế phá rừng, suy thoái rừng; trồng rừng, tái tạo rừng và quản lý rừng bền vững, nâng cao chất lượng rừng để tăng khả năng hấp thụ carbon. Ngoài ra, tín chỉ carbon còn được tạo từ ngành công nghiệp như: Cải thiện hiệu suất năng lượng, áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng, giảm tiêu hao nhiên liệu hoá thạch trong sản xuất; sử dụng năng lượng tái tạo, chuyển sang dùng điện mặt trời, sinh khối thay vì nhiên liệu hoá thạch; thu hồi và sử dụng khí thải như khí Methane từ các bãi rác hoặc nhà máy sản xuất để sử dụng thay vì thải ra môi trường; ứng dụng công nghệ thu và lưu giữ CO2, cải tiến quy trình sản xuất như sản xuất xi măng nguyên liệu clinker ít carbon, hay thay thế bằng vật liệu khác.
Thị trường carbon rừng là một cơ chế kinh tế nhằm giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc trao đổi tín chỉ carbon, đại diện cho lượng CO2 được hấp thụ hoặc giảm phát thải do các hoạt động sản xuất tạo ra. Tại Việt Nam, thị trường mua bán tín chỉ carbon đang dần nóng lên. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Dự kiến đến năm 2028, Việt Nam sẽ vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon. Hiện trên thế giới hình thành 2 cơ chế trao đổi tín chỉ carbon chính đó là:
Thị trường tự nguyện (VCM - Voluntary Carbon Market): Doanh nghiệp, tổ chức mua tín chỉ carbon để trung hòa phát thải của họ, dựa trên hợp tác thỏa thuận giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia, nhằm đáp ứng các chính sách về môi trường và quản trị doanh nghiệp. Giá tín chỉ carbon thường thấp hơn tại thị trường carbon tự nguyện, hiện khoảng 10 USD/tấn CO2. Trong lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất, giá tín chỉ carbon dao động từ 8 đến 16 USD/tấn CO2 trong hai năm gần đây.
Thị trường bắt buộc (Compliance Market): Chính phủ yêu cầu doanh nghiệp bù đắp lượng CO2 phát thải để tuân thủ quy định bắt buộc về giảm phát thải khí nhà kính và có quyền tham gia giao dịch carbon. Thông thường, giá tín chỉ carbon dao động từ 40 đến 60 USD/tấn CO2. Một số cơ chế, như cơ chế phát triển sạch (CDM) của EU, có thể đạt mức giá lên tới 110 USD/tấn CO2.
Thực trạng tín chỉ carbon rừng Việt nam và thành tựu
Việt Nam có khoảng 14,7 triệu hecta rừng, độ che phủ là 42,2%, trong đó có hơn 10 triệu hecta rừng tự nhiên, được đánh giá là có tiềm năng với các dự án về tín chỉ carbon rừng, khi có thể tạo ra khoảng 50 70 triệu tín chỉ carbon rừng mỗi năm, tạo nguồn thu lên đến hàng nghìn tỷ đồng nếu xuất khẩu thành công.
Chính phủ Việt Nam đã đặt ra mục tiêu cho ngành lâm nghiệp, trong đó đặc biệt tập trung vào bảo vệ rừng, nâng cao chất lượng rừng cũng như các dịch vụ rừng như hấp thụ carbon. Trong giai đoạn 2021 - 2025, một số chính sách, chương trình và chiến lược quốc gia đã được phê duyệt, trong đó có Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, một số mục tiêu của chiến lược, chương trình là: Phát triển lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật theo hướng hiện đại, hiệu quả và có khả năng cạnh tranh cao; liên kết chuỗi giá trị rừng từ phát triển rừng đến chế biến, thương mại; quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững rừng và diện tích đất được quy hoạch cho lâm nghiệp.
Năm 2014, Việt Nam đã ký ý định thư với Ngân hàng Thế giới về việc triển khai dự án Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+) nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực lâm nghiệp tại vùng Bắc Trung Bộ, tuy nhiên mãi đến năm 2023, lần đầu tiên tại Việt Nam, lĩnh vực lâm nghiệp mới hoàn thành các thủ tục để chuyển nhượng thành công lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn carbon với đơn giá 5 USD/tấn CO2, tương đương 51,5 triệu USD.
Theo lộ trình phát triển và triển khai thị trường carbon trong nước, đến hết năm 2027 là giai đoạn tập trung xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng; thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025… Đến năm 2028, sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức; quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.
Để từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành các Thông tư: 13/2023/TT-BNNPTNT ngày 30/11/2023; 20/2023/TT-BNNPTNT ngày 15/12/2023; 23/2023/TT-BNNPTNT ngày 15/12/2023;… nhằm tạo thêm cơ sở cho việc thực hiện chuyển nhượng trao đổi carbon rừng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon vào năm 2025 mà Chính phủ đặt ra.
Trong lĩnh vực công nghiệp trên cơ sở Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ Quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon, ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2024/ QĐ-TTg về danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, yêu cầu 2.166 cơ sở thuộc 6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, chỉ khoảng 10% trong số các doanh nghiệp này đã sẵn sàng và thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Ngày 24/01/2025, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 232/QĐ TTg về việc phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam. Đề án đã xác định lộ trình và các giải pháp để xây dựng thị trường carbon, bao gồm việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và cơ chế giao dịch tín chỉ carbon.
Cơ hội và thách thức
Với nguồn tài nguyên rừng vô cùng phong phú không chỉ về mặt đa dạng sinh học, sinh thái, du lịch, việc thực hiện tốt công tác bảo vệ, phát triển rừng cũng sẽ tạo ra cơ hội cho việc làm giàu từ rừng, tăng lượng carbon rừng sẽ tạo ra được nguồn thu tương đối phục vụ cho các hoạt động trong tương lai. Đây cũng là cơ hội cho Việt Nam tạo ra nguồn tài chính nếu thị trường carbon hình thành phát triển, kết nối được với các thị trường quốc tế.
Việt Nam đã thực hiện dự án do Ngân hàng Thế giới chi trả cho giảm phát thải carbon rừng vùng Bắc Trung Bộ, đây là bài học kinh nghiệm giúp cho Việt Nam xây dựng các văn bản pháp lý phục vụ cho phát triển thị trường mới mẻ này. Đồng thời, cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp công nghiệp đổi mới quản trị, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và giảm thiểu tác động đến môi trường, góp phần bảo vệ môi trường.
Hiện nay, gần 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đã áp dụng thuế carbon, với mức thuế dao động từ 1 đến 137 USD/tấn CO2 . Thị trường tín chỉ carbon được xem là công cụ triển vọng để chuyển nguồn tài chính cho các hoạt động khí hậu và bảo tồn thiên nhiên. Nhu cầu về thị trường này tăng mạnh khi nhiều công ty cam kết bù trừ carbon để thực hiện mục tiêu môi trường, đây là cơ hội cho Việt Nam có thể bán tín chỉ carbon cho các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu.
Bên cạnh cơ hội, tín chỉ carbon cũng tạo ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam nếu chúng ta không có sự chuẩn bị:
Để có một thị trường carbon lành mạnh đòi hỏi một hệ thống các văn bản pháp quy hoàn chỉnh, nhất là đối với ngành lâm nghiệp, đối tượng chi trả rất đa dạng.
Việc tính toán chuyển đổi từ sinh khối rừng sang lượng carbon rừng và chuyển đổi sang tín chỉ carbon rừng đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của các chuyên gia cũng như để có được tín chỉ carbon rừng đòi hỏi phải đáp ứng nhiều yêu cầu theo quy định của tiêu chuẩn quốc gia Việt Nam về tín chỉ carbon rừng (hiện đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng với các yêu cầu từ đo đạc, thẩm định, theo dõi, giám sát, đến đảm bảo an toàn xã hội và các điều kiện pháp lý).
Hiện nay thị trường bắt buộc chưa hình thành tại Việt Nam và mới chỉ có thị trường tự nguyện, việc này đòi hỏi các cấp, ngành và sự chủ động của lãnh đạo trong việc kết nối với các nhà tài trợ, những đơn vị, cơ quan quan tâm đến việc tiếp nhận các tín chỉ carbon này như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Carbon, UNFCC.
Tại Việt Nam nhiều nhà máy, xí nghiệp công nghiệp còn sử dụng các công nghệ lạc hậu, phát thải cao nên việc chi trả cho tín chỉ carbon là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp, hiện nay công tác kiểm kê khí nhà kính của các công ty công nghiệp chậm triển khai (mới được 10%). Các doanh nghiệp đứng trước điều kiện một là phải cải tiến, thay đổi công nghệ để giảm phát thải theo yêu cầu của Chính phủ, hoặc phải chi trả cho mua tín chỉ carbon và đây cũng là cơ hội cho tiến trình phát triển thị trường carbon rừng tại Việt Nam.
Giảm phát thải khí nhà kính là nhiệm vụ không chỉ của Việt Nam mà mang tính toàn cầu, Việt Nam đã có những cam kết rất mạnh mẽ trong công cuộc đưa phát thải khí nhà kính về “0” vào năm 2050. Đây là nhiệm vụ nặng nề mà toàn xã hội quyết tâm phải thực hiện.
Thị trường tín chỉ carbon là thị trường mới, có tiềm năng, mở ra những cơ hội rộng mở cho Việt Nam trong việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng bền vững, nhất là khi Việt Nam có diện tích rừng nhiệt đới với khả năng lưu giữ một lượng carbon lớn, nếu chúng được bảo vệ và chăm sóc, rừng sẽ đem lại cơ hội lớn cho ngành lâm nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội cũng là những thách thức không nhỏ. Để đẩy mạnh việc tiếp cận thị trường carbon, rất cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành, của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường carbon, nâng cao nguồn tài trợ cho các dự án xanh, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển liên quan tới lĩnh vực môi trường.