day

,

00

/

month

/

0000

Tiếng Việt

English

Khai thác và phát triển chuỗi giá trị dược liệu bản địa Phú Thọ theo hướng công nghệ sinh học hiện đại

Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, khoa học - công nghệ đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định mục tiêu đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trong đó có định hướng phát triển công nghệ sinh học, y học, dược liệu.

Phú Thọ, với không gian mở rộng bao gồm cả vùng núi cao, trung du và đồng bằng, có điều kiện tự nhiên phong phú, là nơi hội tụ nhiều hệ sinh thái khác nhau. Địa hình đồi núi xen kẽ đồng bằng cùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm đã tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loài thực vật có giá trị làm thuốc. Với điều kiện sinh thái đa dạng và truyền thống y học cổ truyền lâu đời, Phú Thọ có lợi thế nổi bật để phát triển ngành dược liệu gắn với công nghệ sinh học hiện đại.

Tuy nhiên, thực trạng phát triển dược liệu tại Phú Thọ hiện nay còn nhiều hạn chế: Sản xuất phân tán, thiếu chuẩn hóa quy trình; nghiên cứu khoa học còn rời rạc, chưa hình thành nhóm mạnh về công nghệ sinh học dược liệu; chế biến chủ yếu dừng ở mức sơ chế; sản phẩm thương mại chưa có thương hiệu mạnh; cơ chế liên kết chuỗi giá trị chưa hiệu quả. Điều này khiến tiềm năng dược liệu của tỉnh chưa được khai thác đầy đủ để trở thành ngành kinh tế trọng điểm.

Theo báo cáo thống kê, Phú Thọ hiện có trên 500 loài cây thuốc được ghi nhận, trong đó khoảng 50 loài có giá trị cao về dược lý và tiềm năng thương mại. Trong đó tiêu biểu phải kể đến là: Nhóm dược liệu bổ thận, tráng dương: Ba kích (Morinda officinalis), Sâm cau (Curculigo orchioides). Nhóm bổ khí, dưỡng huyết: Hà thủ ô đỏ (Fallopia multiflora), Đinh lăng (Polyscias fruticosa), Tam thất (Panax notoginseng). Nhóm phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư: Xạ đen (Celastrus hindsii), Chè dây (Ampelopsis cantoniensis). Nhóm dược liệu phổ biến trong y học cổ truyền: Nghệ vàng (Curcuma longa), Gừng gió (Zingiber zerumbet), Rau má (Centella asiatica), Ý dĩ (Coix lacryma-jobi).

Mô hình trồng Địa Hoàng theo hướng dẫn GACP-WHO

Hiện nay, nhiều loài dược liệu quý đang bị suy giảm nghiêm trọng do khai thác tự nhiên không kiểm soát và chưa có kế hoạch bảo tồn dài hạn. Sự suy thoái hệ sinh thái rừng và quá trình đô thị hóa cũng đặt ra thách thức đối với việc duy trì nguồn gen bản địa. Công tác bảo tồn còn gặp nhiều khó khăn: Nguồn lực tài chính hạn chế, chủ yếu dựa vào các đề tài cấp tỉnh; chưa hình thành ngân hàng gen dược liệu hay cơ sở dữ liệu DNA barcoding cho các loài chủ lực; thiếu sự gắn kết giữa bảo tồn ex-situ (bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng bên ngoài môi trường sống tự nhiên của chúng) với in-situ (bảo tồn tại chỗ hay bảo tồn nội vi, tức là bảo vệ các loài sinh vật trong chính môi trường sống tự nhiên của chúng); diện tích trồng dược liệu của Phú Thọ còn nhỏ lẻ, chủ yếu do các hộ nhiều vùng trồng đạt tiêu chuẩn GACP WHO, do chi phí đầu tư và yêu cầu kỹ thuật cao; nguồn giống chưa được kiểm định, dễ lẫn tạp loài hoặc kém chất lượng. Canh tác chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa ứng dụng công nghệ cao trong tưới tiêu, dinh dưỡng, kiểm soát sâu bệnh; phần lớn sản phẩm dược liệu hiện mới dừng ở mức sơ chế (phơi, sấy, cắt lát), hoặc các sản phẩm truyền thống (trà túi lọc, cao lỏng, rượu thuốc). Các doanh nghiệp chế biến hiện đại còn ít; công nghệ chiết tách tiên tiến (như chiết siêu tới hạn CO2 , enzyme assisted extraction, vi nang hóa hoạt chất) chưa được áp dụng rộng rãi; thị trường tiêu thụ chủ yếu trong tỉnh và các vùng lân cận, ở dạng nguyên liệu thô. Sản phẩm dược liệu Phú Thọ ít được đăng ký thương hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý, nên khó cạnh tranh với các tỉnh có thương hiệu mạnh.

Mặc dù tỉnh Phú Thọ đã ban hành một số nghị quyết và chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp nhưng vẫn còn thiếu tính đặc thù cho ngành dược liệu, mức hỗ trợ còn dàn trải, thủ tục hành chính phức tạp, và chưa có cơ chế ưu tiên rõ ràng cho nghiên cứu - phát triển (R&D) công nghệ sinh học dược liệu.

Với mục tiêu đến năm 2035, tỉnh Phú Thọ trở thành Trung tâm nghiên cứu, sản xuất và chế biến dược liệu công nghệ cao của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, với các chỉ tiêu cơ bản: 1- Ít nhất 15 loài dược liệu chủ lực được trồng tập trung, có vùng sản xuất đạt tiêu chuẩn GACP WHO; 2 - Hình thành ngân hàng gen và dữ liệu DNA barcoding cho các loài dược liệu chính; 3 - Xây dựng 01 trung tâm phân tích và chế biến dược liệu hiện đại (có LC MS/MS, NMR, nuôi cấy mô, pilot plant chế biến); 4 - Có ít nhất 50 sản phẩm dược liệu đạt chứng nhận chất lượng, trong đó 10 sản phẩm có thương hiệu quốc gia và khả năng xuất khẩu; 5 - Hình thành ít nhất 05 chuỗi giá trị dược liệu liên kết bền vững, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò hạt nhân, hợp tác xã và nông dân là mắt xích sản xuất.

Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, cần phải thực hiện một số giải pháp công nghệ sinh học và chính sách nhằm khai thác và phát triển hiệu quả chuỗi giá trị dược liệu trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới:

Thứ nhất, về công nghệ sinh học:

- Cần định danh và chuẩn hóa nguồn dược liệu bằng công nghệ sinh học phân tử: Áp dụng DNA barcoding (ITS2, matK, rbcL, trnH-psbA) để định danh loài và xây dựng cơ sở dữ liệu di truyền cho các loài dược liệu chủ lực; thành lập ngân hàng gen và ngân hàng mẫu dược liệu Phú Thọ, lưu giữ cả mẫu khô, mẫu tươi, và trình tự gen chuẩn, phục vụ nghiên cứu và kiểm định; tích hợp hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử dựa trên dữ liệu DNA và QR code nhằm nâng cao tính minh bạch và niềm tin của người tiêu dùng.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ nhân giống và nuôi cấy mô tế bào để sản xuất giống sạch bệnh, đồng nhất về mặt di truyền. Phát triển vườn ươm giống chuẩn cho các loài chủ lực, cung cấp nguồn giống chất lượng cao cho nông dân và hợp tác xã. Đồng thời thực hiện nghiên cứu chuyển hóa thứ cấp trong nuôi cấy tế bào thực vật, nhằm sản xuất hợp chất hoạt tính trong điều kiện phòng thí nghiệm.

- Sử dụng công nghệ canh tác và quản lý chất lượng theo GACP-WHO: Xây dựng mô hình vùng trồng thông minh áp dụng IoT (Internet of Things) để giám sát độ ẩm, dinh dưỡng, sâu bệnh; tổ chức đào tạo nông dân theo quy trình GACP-WHO, bảo đảm an toàn, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát dư lượng. Tích hợp hệ thống blockchain để ghi nhận toàn bộ quy trình canh tác, thu hái và vận chuyển.

- Áp dụng công nghệ chế biến sâu và phát triển sản phẩm. Phát triển công nghệ bào chế mới: Vi nang hóa, nano-hóa hoạt chất, nhằm tăng sinh khả dụng và độ ổn định. Đồng thời khuyến khích nghiên cứu lên men vi sinh để tạo chế phẩm chức năng từ dược liệu bản địa (ví dụ: Probiotic kết hợp dược liệu).

- Thiết lập đơn vị nghiên cứu tiền lâm sàng trong Trung tâm công nghệ sinh học dược liệu tỉnh. Hợp tác với bệnh viện tỉnh và các viện y học cổ truyền để triển khai thử nghiệm lâm sàng bước đầu cho các chế phẩm dược liệu. Chuẩn bị hồ sơ đăng ký sản phẩm thực phẩm chức năng hoặc thuốc cổ truyền cải tiến theo quy định của Bộ Y tế.

Thứ hai, tăng cường các giải pháp về chính sách và quản trị: 

- Hoàn thiện khung chính sách đặc thù cho dược liệu. Áp dụng ưu đãi về thuế, đất đai và tín dụng cho doanh nghiệp đầu tư vào vùng trồng GACP, trung tâm chế biến và nghiên cứu dược liệu.

- Triển khai các mô hình liên kết chuỗi giá trị theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trong đó doanh nghiệp là hạt nhân, hợp tác xã là tổ chức sản xuất, viện - trường là đơn vị nghiên cứu - đào tạo; xây dựng cơ chế chia sẻ lợi nhuận công bằng trong chuỗi giá trị, bảo đảm quyền lợi cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp.

- Phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Hình thành trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực dược liệu, hỗ trợ các startup phát triển sản phẩm mới; thu hút chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.

- Xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường. Triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử và tiêu chuẩn hóa bao bì, nhãn mác; tăng cường xúc tiến thương mại quốc tế, tham gia hội chợ dược liệu, kết nối với thị trường Đông Á, Châu Âu và Bắc Mỹ.

- Tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát: Thành lập Ban chỉ đạo phát triển dược liệu tỉnh Phú Thọ, chịu trách nhiệm điều phối, giám sát và đánh giá các chương trình, dự án; thiết lập hệ thống chỉ số giám sát (KPIs) về diện tích trồng GACP, sản lượng chế biến, số sản phẩm đạt chuẩn, giá trị thị trường; tổ chức đánh giá định kỳ hàng năm và công bố công khai để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Hiện nay, tỉnh Phú Thọ sau sáp nhập, với địa giới mở rộng và hệ sinh thái đa dạng, là địa bàn giàu tài nguyên dược liệu, có lợi thế lớn để phát triển ngành dược liệu gắn với y học cổ truyền và công nghệ sinh học. Nếu được định hướng và đầu tư đúng mức, dược liệu có thể trở thành một ngành kinh tế chiến lược của tỉnh Phú Thọ, đóng góp vào phát triển nông nghiệp xanh, nâng cao giá trị gia tăng, cải thiện sức khỏe cộng đồng và khẳng định vị thế của địa phương trong bản đồ dược liệu Việt Nam và khu vực.