Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ tập I và Lịch sử Đảng bộ thành phố Việt Trì đều ghi: Ngày 22 tháng 10 năm 1907 toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã Việt Trì và ngày 04/6/1962 Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra quyết định số 65/CP, thành lập thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ. Như vậy đô thị Việt Trì đến nay đã được 110 năm, trong đó có 55 năm là thành phố.
Khi mới thành lập hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và thiết chế văn hóa vô cùng nghèo nàn, ngoài hai tuyến đường sắt và đường quốc lộ II chạy qua thì đô thị Việt Trì chỉ có nhà ga, trạm bưu điện, nhà máy sản xuất bột giấy công xuất nhỏ, mãi đến năm 1913 mới có thêm xưởng ươm tơ hoạt động được vài năm thì đóng cửa, còn lại một trại thí nghiệm (trại tằm). Cả vùng chỉ có một trường tiểu học, một bệnh xá (nhà thương) với vài chục giường bệnh do một y sỹ phụ trách. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Trì là vành đai trắng, các khu dân cư còn lại sinh hoạt với huyện Hạc Trì. Trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1955-1961) Việt Trì được Đảng, Nhà nước cho xây dựng khu công nghiệp - một trong hai khu công nghiệp lớn nhất miền Bắc XHCN. Ngày 18 tháng 3 năm 1962 Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị cắt băng khánh thành khu công nghiệp Việt Trì và ngày 04/6/1962 thành lập thành phố Việt Trì. Lúc này thành phố có 5 đơn vị hành chính là: Thị trấn Việt Trì, thị trấn Bạch Hạc, xã Sông Lô, xã Chính Nghĩa và xã Trưng Vương cùng khu công nghiệp với hệ thống các nhà máy Đường, Điện, Giấy, Hóa chất, Mỳ chính, Xay, Thuốc trừ sâu và các nhà máy sản xuất nguyên vật liệu xây dựng… Công nghiệp Việt Trì đã sản xuất được nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, từng là niềm tự hào của người dân Đất Tổ và miền Bắc XHCN.
Tuy nhiên thành phố non trẻ, đầy sức sống hoạt động chưa được bao lâu lại phải gồng mình chống chọi với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ (1965-1972). Lịch sử không bao giờ quên tội ác dã man của giặc Mỹ trên đất Việt Trì. Chúng huy động 285 lần tốp máy bay đánh phá 65 trận cả ngày lẫn đêm, làm cho 100% nhà máy bị tàn phá, cầu Việt Trì bị đánh đi, đánh lại nhiều lần, nhiều trường học rồi cả bệnh viện và nhà thờ Tiên Cát bị đổ sập; cả thành phố thành bãi hoang tàn; 175 người con của Việt Trì đã hy sinh trên mảnh đất quê hương, có những trái tim ngừng đập ngay bên lò hơi, xưởng máy để giữ nhịp sống, làm cho Việt Trì luôn: “Sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi, tổ chức đời sống giỏi” để Việt Trì: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” góp phần làm nên chiến thắng huy hoàng 30 tháng 4 năm 1975 của dân tộc.
Sau ngày toàn thắng, nhân dân Việt Trì lại khẩn trương xây dựng lại thành phố của mình, nhưng do hậu quả của cuộc chiến tranh hủy diệt quá nặng nề, lại thêm khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế (1976-1985), nên gần 30 năm thành phố Việt Trì vẫn chưa vào cấp đô thị. Đầu năm 1992 UBND thành phố đã xây dựng dự án đề nghị Nhà nước công nhận thành phố Việt Trì là đô thị loại III. Còn nhớ trong buổi bảo vệ đề án trước Hội đồng thẩm định quốc gia, khi kết luận Hội nghị GS.TSKH Phạm Sỹ Liêm, Thứ trưởng Bộ Xây dựng - Chủ tịch Hội đồng thẩm định đã nói: Hãy cho chàng trai đang tuổi dậy thì bộ quần áo rộng, tức là đồng ý công nhận Việt Trì là đô thị loại III, cho dù còn một số tiêu chí chưa thật đầy đủ. Thế mà chỉ sau 12 năm, tháng 10 năm 2004 Việt Trì đã được công nhận đô thị loại II và tám năm sau nữa, ngày 4 tháng 5 năm 2012 thành phố đã đạt đô thị loại I với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Có thể nói Việt Trì mãi là niềm tự hào của các thế hệ người dân thành phố.
Một góc thành phố Việt Trì
Trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân Việt Trì tiếp tục thực hiện ba khâu đột phá: Xây dựng kết cấu hạ tầng; xây dựng đô thị văn minh, văn hóa và phát triển dịch vụ du lịch mà trọng tâm là xây dựng thành phố Việt Trì trở thành thành phố Lễ hội, về cuội nguồn dân tộc Việt Nam. Đó là công việc hết sức to lớn, một bước ngoặt trong tiến trình xây dựng và phát triển đô thị Việt Trì. Tự đáy lòng của người con sinh ra, lớn lên và gắn bó với vùng đất này, tôi xin đề xuất mấy vấn đề như sau:
Một là, cần khẩn trương triển khai quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử quốc gia Đền Hùng đến năm 2025, vừa được Chính phủ phê duyệt. Đề nghị quan tâm sâu sắc đến dự án “Tháp Hùng Vương và Lịch sử Việt Nam”. Tư tưởng xuyên suốt của dự án này là từ thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh, mở đầu là tháp Hùng Vương, nối tiếp là các biểu tượng của thời đại Hai Bà Trưng, thời đại tiền Lý (Lý Nam Đế), thời đại Ngô Quyền, thời Đinh, thời tiền Lê (Lê Hoàn), thời Lý (Lý Thái Tổ), thời Trần, thời hậu Lê (Lê Lợi), thời Quang Trung, thời Nguyễn và kết thúc là hình tượng Bác Hồ đứng trên lễ đài Ba Đình đọc tuyên ngôn độc lập, mở ra thời đại mới (Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ), để Đền Hùng trở thành di tích kép tưởng niệm thời đại Hùng Vương và thời đại Hồ Chí Minh.
Hai là, đề nghị chuyển nhà máy CMC Tiên Cát lên khu công nghiệp Thụy Vân, thu hồi vùng đất này để khôi phục tôn tạo lăng mộ Thủy Tổ quốc Mẫu - bà Hồng Đăng Ngàn Giáo chủ của Đạo “Tu thân tích thiện và thờ cúng Tổ tiên người Việt” nhằm hoàn thiện khu di tích “Lăng mộ Đền Tiên” gắn khu di tích này với Quảng trường Hùng Vương, trung tâm lễ hội đường phố, công viên Văn Lang và các thiết chế kinh tế, thương mại, văn hóa, chính trị tạo nên điểm nhấn của trung tâm thành phố Lễ hội.
Ba là, đề nghị cho nâng cấp khu di tích quốc gia Đền Tam Giang - chùa Đại Bi, xây dựng cây Chiên đàn biểu tượng khí phách hiên ngang của người Việt và bến tàu thủy đón khách du lịch đường sông - gắn khu du lịch tâm linh này với khu du lịch Bến Gót, tạo thành điểm nhấn cửa ngõ phía Nam của thành phố lễ hội.
Bốn là, đề nghị tôn tạo cung phủ Lang Liêu và những vườn trầu ở Dữu Lâu để ghi công đức của Vua Hùng thứ bảy người đã sáng tạo ra bánh Chưng, bánh Dày. Gắn kết khu di tích này với đình Lâu Thượng, Thiên Cổ Miếu, Đầm Mai tạo thành điểm nhấn phía Đông của thành phố Lễ hội.
Tác giả bài viết: Nguyễn Hữu Điền