Với chưa đến một ngàn chữ, Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã trở thành áng văn chương chính luận - kiệt tác của Việt Nam và thế giới.
Lỗ Tấn đã từng nói: “Chảy ra từ mạch nguồn phải là nước. Chảy ra từ huyết quản phải là máu”. Tương tự như vậy, chảy ra từ tâm khảm Hồ Chí Minh, người Việt Nam đẹp nhất, tâm hồn trong như ánh sáng pha lê, phẩm chất kiên trinh, trong suốt như ngọc chắc chắn phải là những áng văn chương thiên thu tuyệt diệu từ, sống mãi với thời gian.
Bấy lâu nay, các học giả, các nhà nghiên cứu, kể cả văn học nhà trường thường khám phá Tuyên ngôn Độc lập và làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực, song chỉ thảng hoặc mới có chú trọng tới nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh - Chủ thể sáng tạo của áng văn chương kiệt tác này.
Dưới giác độ đó, chúng tôi nghĩ: Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, thiên tài của nhân loại… thì Tuyên ngôn Độc lập trước hết là sự thể hiện ý chí, trí tuệ, tình cảm của chính Người - con người đã kết tinh những tinh hoa truyền thống, khát vọng của dân tộc, lẽ phải, chân lý của nhân loại, của thời đại, mãi mãi sống trong hành trình của lịch sử dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập đã chứa đựng tình cảm nồng nhiệt, với bao tâm huyết của tác giả và chính vì chứa đựng rất rõ tâm trạng của người viết, một điều ít thấy ở văn bản chính luận nên Tuyên ngôn Độc lập không đơn thuần là một văn bản chính trị khô khan, thuần túy. Trong văn bản đó đã có sự kết hợp khá nhuần nhị giữa lí và tình, truyền thống với thời đại, dân tộc với nhân loại, Việt Nam và thế giới... Nhờ đó, Tuyên ngôn Độc lập có một giọng điệu riêng, được viết bởi bàn tay điêu luyện của một bậc thầy về ngôn ngữ.
* Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận. Vì thế, nó phải xuất phát từ những nguyên lý của thời đại. Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Trích dẫn nội dung hai bản tuyên ngôn của tổ tiên người Pháp và người Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định với toàn thế giới: Ba cuộc cách mạng của Pháp, Mỹ và Việt Nam là ngang tầm nhau, ba bản tuyên ngôn và ba nền độc lập là ngang hàng nhau. Điều này cũng khẳng định uy thế của một dân tộc tuy bé nhỏ, nghèo nàn nhưng với trí tuệ và lòng quyết tâm sắt đá của mình đã làm nên một cuộc cánh mạng vĩ đại vào bậc nhất thế giới. Lập luận như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và hai bản Tuyên ngôn bất hủ ấy có cùng vị trí như nhau trên trường quốc tế.
Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như là sự kế tục niềm tự hào của tác giả Nam quốc sơn hà khi đặt Nam quốc ngang hàng Bắc quốc và Nam đế sánh ngang với Hoàng đế Trung Hoa. Đây cũng còn là sự tiếp nối tác giả bài Bình Ngô Đại cáo khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng: đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc. Rõ ràng ở đây, sức mạnh truyền thống đã tiếp sức cho tư tưởng lớn mang tầm vóc, chân lý của thời đại mới ở Hồ Chí Minh.
Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và khẳng định: Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Như vậy, Hồ Chí Minh nêu lên quyền độc lập tự do của các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam, là lẽ phải trong quan hệ quốc tế. Lẽ phải ấy không phải do người Việt Nam nghĩ ra, mà chính là do các nước lớn đó xác lập. Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ quyền của cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới, khẳng định tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình. Luận điểm “suy rộng ra” của Người là một cống hiến đầy ý nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng khai hỏa báo hiệu một thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, làm sụp đổ hệ thống chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỷ XX (thực tế đã chứng minh).
Nếu đi sâu nghiên cứu Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, chúng ta thấy: Hồ Chí Minh đã thay đổi một ý so với bản tuyên ngôn của Th. Giép-phơ-sơn (Th. Jefferson). Trong Tuyên ngôn của nước Mỹ có câu: “Chúng tôi ủng hộ một sự thật hiển nhiên rằng, mọi người đều sinh ra bình đẳng” thì Bác Hồ suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng”. Đây quả là một sự thay đổi khéo léo và sáng suốt. Đặc biệt, bà Lây-đi Bo-tơn (Lady Borton) - một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam người Mỹ, còn đưa ra nhận xét: Khi dịch chữ “all men” trong văn bản của Th. Giép-phơ-sơn được viết vào thế kỷ XVIII, thời đó, từ này chỉ bao hàm những người đàn ông (đương nhiên là da trắng và có tài sản). Nhưng từ “all men” này đã được Chủ tịch của nước Việt Nam độc lập diễn dịch thành: “Tất cả mọi người”. Như vậy có thể thấy, với vốn tiếng Anh hoàn hảo cùng với thiên tài của trí tuệ, Bác Hồ đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm mới của mình. Đó chính là một sự “suy rộng” tiếp nối mà Người đã đóng góp về lý luận, đem lại những tư tưởng tiến bộ nhất và phù hợp với sự phát triển của nhân loại mãi về sau này.
Mặt khác, Tuyên ngôn Độc lập được Bác đọc trong hoàn cảnh trọng đại của đất nước, khi mà phía Nam, thực dân Pháp núp sau quân đồng minh (Anh), lăm le trở lại và muốn hợp pháp hóa cuộc xâm lược của chúng; phía Bắc, quân Tàu Tưởng đang chờ sẵn ở biên giới với sự hậu thuẫn của bọn can thiệp Mỹ. Vì vậy, đối tượng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là đồng bào trong nước, nhân dân tiến bộ trên thế giới mà còn cả kẻ thù xâm lược. Cho nên Tuyên ngôn Độc lập còn nhằm tranh luận, bác bỏ lý lẽ của chúng trước thế giới và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ. Cách trích dẫn của Người thật sáng tạo, mang tầm nhìn chiến lược cùng sự tiên tri sáng suốt. Việc sử dụng những trích dẫn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn chỉ ra rằng, Cách mạng của nhân dân Việt Nam gắn liền với những cuộc cách mạng tiến bộ trên thế giới, và khẳng định điều hiển nhiên: Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người, đồng thời cũng là sự nối tiếp của con đường tiến hóa mà nhân loại đã và sẽ đi…
Cũng có thể với tầm nhìn xa và sự nhạy cảm chính trị của mình, Bác Hồ đã nhận thấy những thế lực sẽ đương đầu với nền độc lập của Việt Nam là Pháp và Mỹ, nên Người đã trích dẫn ngay những lý lẽ không thể chối cãi được ấy của chính họ. Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp (những điều từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy). Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
Khéo léo vì Người tỏ rõ là người có tâm thế văn hóa cao, rất trân trọng những danh ngôn bất hủ - những tuyên ngôn mang tầm vóc chân lý thời đại của người Pháp, người Mỹ.
Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bẩn lên lá cờ nhận đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại nếu Pháp, Mỹ nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trong tranh luận, để bác bỏ một luận điệu của kẻ khác, cách hay nhất là dùng chính lí lẽ của họ. Đây là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”. Điều đó vừa có tác dụng tranh đấu, vừa khiến các cường quốc không dễ nuốt lời, chối bỏ quyền độc lập chính đáng của Việt Nam.
* Bản Tuyên ngôn Độc lập vĩ đại ấy là một trong những bản hùng ca Đại Việt thời đại Hồ Chí Minh có tính nhân đạo sâu sắc nhất, cao cả nhất của thế kỷ XX mà loài người từng biết đến. Bằng tâm huyết và trong “những giây phút sung sướng nhất của đời mình”, Người đã khắc họa tầm vóc thời đại của Cách mạng tháng Tám và Chân dung của Nhân dân Việt Nam anh dũng quật cường.
Ngày 28-8-1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là quảng trường Ba Đình) ngày 02 tháng 9 năm 1945, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của lịch sử Việt Nam, sau bài thơ thần Nam quốc sơn hà (tương truyền là của Lý Thường Kiệt) thế kỷ X và Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, Bình Ngô Đại cáo khẳng định một chân lí lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” thì Tuyên ngôn Độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn hàng đầu trên thế giới về quyền con người. Chúng ta cần nhìn nhận một cách khoa học về sự tinh tế, sự linh hoạt trong tư duy, sự thiên tài về mặt lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lấy “những lẽ phải không ai chối cãi được” để bảo vệ “những lẽ phải”, “những quyền chân chính” cho tất cả mọi người, cho bất cứ dân tộc nào ở tác phẩm của Người.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chí Minh vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong hơn 80 năm qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man: "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta" và những tội ác chồng chất như núi. Người đã điểm qua một cách khái quát năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng. Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man chia để trị; đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện "để làm cho nòi giống ta suy nhược". Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng; đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý làm cho dân ta trở nên bần cùng; không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên và bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn…
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân cuồng Minh: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn 500 năm sau, trong Tuyên ngôn Độc lập, người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh viết về tội ác của thực dân, phát xít: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
Đứng trên lập trường của một dân tộc có chủ quyền, Tuyên ngôn Độc lập đã lớn tiếng hỏi tội quân xâm lược và vạch trần tội ác cũng như sự hèn hạ của chúng. Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật (…) trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật... Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói (…) Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ…”
Hai thái cực đối lập: một đằng là tội ác ghê tởm; một bên là khoan dung độ lượng. Rõ ràng ở đây, tác giả đang đứng ở tư thế của những người chiến thắng, tư thế của một dân tộc quật cường, bất khuất mà dồn kẻ thù vào chân tường của sự phi lý.
Sự thật đó đã tôn vinh lòng nhân ái của đồng bào ta và cũng nâng tầm vóc thời đại của Cách mạng tháng Tám thêm cao cả mà vĩ đại. Cũng từ đó, ta nhận ra đây là cuộc cách mạng mang tính nhân đạo, nhân văn, tính tự chủ, tự lực tự cường…, một cuộc cách mạng của dân, do dân và vì dân. Đến đây, chân dung của nhân dân Việt Nam anh dũng quật cường bỗng biện lên oai hùng, lẫm liệt:
“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Thế là dân ta đã phá tan xiềng xích của thực dân đế quốc và bọn phát xít, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, nghĩa là cùng một lúc Cách mạng tháng Tám đã hoàn thành sứ mệnh của hai cuộc cách mạng: dân tộc và dân chủ, dựng nên chính quyền (lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới), lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và cũng trong hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới.
Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”; và: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc, đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt đá, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Đây là tiếng nói của công lý, của chính nghĩa, tiếng nói tự lập tự cường hào hùng của dân tộc ta, đó là bản anh hùng ca bất diệt của non sông đất nước, nó toát lên khí phách quật cường của hào khí tiến công, nó chứng minh đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng con người trước toàn thế giới. Đây còn là lời tuyên bố của một đất nước có chủ quyền, của người chiến thắng đứng trên đầu thù xốc tới với niềm kiêu hãnh tự hào mà cảnh báo kẻ thù nếu chúng không từ bỏ dã tâm xâm phạm bờ cõi thiêng liêng của ta một lần nữa. Chúng là phi nghĩa, chúng đã làm trái lẽ đời nên trời sẽ không dung tha chúng, và sự thất bại cuối cùng của chúng là không thể tránh khỏi. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, ta như nghe đâu đây vang lên âm hưởng của khúc tráng ca Nam quốc sơn hà: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" (Chúng bay sẽ bị đánh tan tành); ta như nghe tiếng đồng vọng của bản thiên cổ hùng văn Bình Ngô Đại cáo: “Đánh một trận sạch không kình ngạc. Đánh hai trận tan tác chim muông”. Rõ ràng Tuyên ngôn Độc lập là sự tiếp nối truyền thông quý báu của dân tộc, ở thế kỷ XX, nhân dân ta tiếp tục viết nên những trang sử chói lọi trong sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá, đồng thời cũng là áng văn chương chính luận bất hủ đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một cách hiển nhiên. Nó vừa kế thừa, phát huy được giá trị của truyền thống lịch sử vừa mang tính thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập sẽ còn mãi mãi trong lịch sử dân tộc như một tờ khai sinh cho dân tộc Việt Nam, và cũng làm phong phú thêm kho tàng văn hóa tư tưởng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, ở Người - một trong những tố chất quan trọng bậc nhất sáng ngời là tư tưởng nhân văn, dòng hợp lưu trí tuệ của Việt Nam và nhân loại. Đúng như Ê-đi-sơn nói: “Làm dễ dàng điều mà người bình thường không làm được, đó là người tài năng. Làm được điều mà người tài năng không làm nổi, đó mới đích thực là thiên tài”. Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện sự sáng suốt, nhạy bén và tầm nhìn chiến lược sâu rộng với khả năng dự báo thiên tài và hơn cả là một tấm lòng của Hồ Chí Minh luôn luôn hướng tới mục tiêu độc lập tự do của đất nước, hướng về hạnh phúc của nhân dân Việt Nam và nhân loại cần lao.
Tác giả bài viết: Hữu Thục