Trong vòng 20 năm trở lại đây, thế giới nói chung đã có những sự chuyển biến đáng kể trong nhận thức về vai trò của văn hóa trong phát triển. Sau khi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) phát động thập niên vì sự phát triển văn hóa (1987-1996), nhiều chương trình nghị sự của tổ chức này, các tổ chức quốc tế khác và các nước thành viên đã đưa phát triển văn hóa trở thành một hoạt động ưu tiên hàng đầu. Trong khi Công ước 1972 của UNESCO việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới vẫn duy trì tầm quan trọng trong việc công nhận các di sản thiên nhiên thì Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đã giúp lên danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp cho nhiều quốc gia, giúp hình thành một mạng lưới các di sản văn hóa phi vật thể thế giới (trong đó Việt Nam có 08 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại gồm Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan Họ Bắc Ninh, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Nghệ thuật đờn ca tài tử ở Nam Bộ, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò chơi kéo co, và 02 di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp gồm Hát Xoan Phú Thọ, Hát Ca Trù của người Việt), cũng như giúp các quốc gia định hướng và hình thành nên hệ thống các chính sách văn hóa để bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Cùng chung xu thế đó, Công ước 2005 của UNESCO về bảo vệ các biểu đạt đa dạng của văn hóa đã tiếp thêm sức mạnh cho văn hóa bằng cách đưa ra cách tiếp cận mới về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội khi nhấn mạnh quyền của các quốc gia đối với việc hình thành chính sách văn hóa riêng của mình, cũng như nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế trong các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, đặc biệt chú trọng phát triển công nghiệp văn hóa ở từng quốc gia. Như vậy, trên bình diện quốc tế, các tổ chức và các quốc gia đều nhìn nhận thấy vai trò xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của văn hóa. Các nước trên thế giới cũng đang ngấm ngầm cạnh tranh với nhau thông qua việc sử dụng sức mạnh mềm để phổ biến các giá trị, khuôn mẫu thể chế và đặc biệt là văn hóa, để từ đó, tạo ra cơ hội quảng bá hình ảnh quốc gia và tạo thuận lợi để phát triển kinh tế. Vấn đề còn lại nằm ở chỗ, các đơn vị cụ thể (ở đây là một đơn vị tỉnh) triển khai các quan điểm này như thế nào trong bối cảnh hiện nay.
1. Phú Thọ có nhiều tiềm năng cũng như có nhiều lợi thế để phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác, sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế, giá trị lịch sử, văn hóa vùng Đất Tổ, trở thành một trong những tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ như được ghi rõ trong Nghị quyết Đảng bộ Tỉnh. Sức mạnh tiềm năng ấy có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, và nếu chúng ta có thể tận dụng những cơ hội mà tiềm năng đó đem lại, những mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết hoàn toàn có thể đạt được và thậm chí sớm hoàn thành. Trong số những tiềm năng ấy, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một nguồn lực quan trọng của tỉnh: đó là VĂN HÓA.
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã được khẳng định trong rất nhiều văn bản. Trên thế giới, Công ước 2005 về bảo vệ các biểu đạt đa dạng của văn hóa của UNESCO đã nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa trong việc phát triển kinh tế - xã hội, cũng như vai trò của các quốc gia, các vùng miền trong việc xây dựng các chính sách phát triển văn hóa nhằm tạo điều kiện để văn hóa trở thành nguồn lực cho sự phát triển bền vững. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến luận điểm “văn hóa soi đường quốc dân đi”. Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều văn bản nghị quyết đều nhấn mạnh vai trò của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là hệ điều tiết xã hội; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội. Những quan điểm nhất quán đó chứng tỏ, nếu chúng ta biết khai thác những thế mạnh của văn hóa, chúng ta có thể tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững cho đất nước nói chung, tỉnh Phú Thọ nói riêng.
2. Với mọi người dân Việt Nam, Phú Thọ là miền Đất Tổ, nơi ai trong đời cũng mong một lần về để bày tỏ lòng thành kính, tri ân tổ tiên. Không có địa phương nào có được một lợi thế so sánh lớn đến như vậy. Đó là một trong những điểm mạnh lớn nhất của tỉnh, và được xem như một thứ sức mạnh mềm và là thương hiệu văn hóa quan trọng. 305 di tích của tỉnh đã được xếp hạng có một giá trị kinh tế, chính trị và xã hội không nhỏ. Mỗi một di tích là những câu chuyện về truyền thống và lịch sử - những tài nguyên nhân văn đảm bảo cho việc tăng cường tình đoàn kết của cộng đồng, xây dựng hình ảnh địa phương, tạo ra sự phát triển du lịch và rất nhiều các yếu tố có lợi cho các sự phát triển khác.
Chính văn hóa Đất Tổ là sự quan tâm chính của rất nhiều du khách, và Phú Thọ có được lợi ích từ yếu tố này. Trong 5 năm vừa qua, số lượng du khách đến với Phú Thọ ngày càng đông. Theo báo cáo chính trị trình đại hội Đảng của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, lượng khách du lịch đến Phú Thọ duy trì ở mức ổn định trên dưới 6 triệu lượt khách/năm với tốc độ tăng bình quân đạt 4,3%/năm. Doanh thu du lịch dịch vụ tăng trưởng bình quân là 15,4%/năm. Trong đóng góp chung đối với du lịch này, du lịch văn hóa và tâm linh đóng vai trò quan trọng nhất. Đây là số lượng ấn tượng khi so sánh với các lĩnh vực kinh tế khác, nhưng vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng mà tỉnh Phú Thọ đang có.
Thực ra, đóng góp của du lịch là không nhỏ khi tính đến sức lan tỏa của nó. Chúng ta biết rằng, việc thu hút khách du lịch sẽ là điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng, tạo ra thu nhập và công ăn việc làm trực tiếp và gián tiếp thông qua việc hướng dẫn khách thăm quan, lưu trú, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, hay góp phần làm phong phú và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa của địa phương. Khách du lịch đến với lễ hội Đền Hùng có thể giúp phát triển nghề làm bánh chưng ở Hùng Lô, nghề trồng chè ở Phú Thịnh, Ngọc Đồng, làng Khuân, làm nón ở Sai Nga, hát Xoan ở Phù Đức.
3. Để văn hóa của Phú Thọ có thể đóng góp tốt hơn vào sự phát triển của tỉnh, tôi nghĩ rằng chúng ta cần nghĩ đến một số giải pháp sau:
- Nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như lợi thế của Phú Thọ trong việc khai thác văn hóa cho phát triển, đưa nhận thức này thành các kế hoạch hành động cụ thể.
Trên thực tế, nhận thức đúng đắn sẽ là chìa khóa để giải quyết các vấn đề liên quan. Nhận thức đúng sẽ dẫn đến hành động đúng! Khi chúng ta xác định được rằng, văn hóa có vị trí đặc biệt quan trọng đối với Phú Thọ và việc xây dựng thương hiệu Đất Tổ để tạo tiền đề cho phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội là một việc làm cần thiết, cần tập trung mọi nỗ lực của tỉnh cho mục đích này, từ đó, trong kế hoạch, chương trình hành động của các ban, ngành của tỉnh đều đặt ra những mục tiêu phát triển văn hóa và thương hiệu Đất Tổ thì sẽ tạo tác động mạnh mẽ và lan tỏa cho sự phát triển của tỉnh.
- Xây dựng thương hiệu Đất Tổ bằng cách tiếp tục xây dựng Việt Trì thành thành phố lễ hội cội nguồn, tổ chức các sự kiện liên quan đến di sản, và xác định các sản phẩm du lịch liên quan đến thời kỳ Hùng Vương.
Để văn hóa trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải có sản phẩm cụ thể. Việc xây dựng Việt Trì trở thành thành phố lễ hội cội nguồn là một chủ trương đúng, vì vậy, cần phải thúc đẩy nhanh hơn nữa chủ trương này. Không chỉ là cơ sở vật chất, các hoạt động, sự kiện sẽ được triển khai ở Phú Thọ nói chung, Việt Trì nói riêng nên được lên kế hoạch cụ thể. Bên cạnh đó, là việc xây dựng hệ thống các sản phẩm du lịch từ tiềm năng, vốn văn hóa địa phương, thể hiện bản sắc quê hương Đất Tổ.
- Tổ chức các sinh hoạt văn hóa, đầu tư trùng tu, tu bổ các di tích là một trong những nhiệm vụ cần phải quan tâm hơn nữa. Đây không chỉ là những hoạt động giữ gìn di sản mà còn là việc tạo ra sự hấp dẫn cho hình ảnh của vùng Đất Tổ.
Sự sinh động, hấp dẫn của một vùng đất được đánh dấu bởi các sinh hoạt văn hóa cũng như bởi sự phong phú của các di sản văn hóa. Phú Thọ có 1.372 di tích lịch sử văn hóa (trong đó có 305 di tích được xếp hạng: 01 di tích quốc gia đặc biệt, 73 di tích quốc gia, 231 di tích cấp tỉnh) và 260 lễ hội được tổ chức thường xuyên. Đây chính là nguồn tài nguyên lớn đối với sự phát triển văn hóa, kinh tế và xã hội của Tỉnh. Khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa đó có thể giúp Tỉnh phát triển bền vững như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020.
- Duy trì hoạt động góp Giỗ luân phiên hàng năm, đồng thời có thêm các kế hoạch khác để thu hút sự quan tâm của người Việt Nam trong và ngoài nước, bạn bè quốc tế đối với sự kiện đặc biệt này.
Hoạt động góp Giỗ không chỉ là việc thể hiện trách nhiệm của các địa phương đối với quê hương Đất Tổ mà đây thực sự là một việc làm để quảng bá hình ảnh của Phú Thọ đối với các địa phương cũng như mọi tầng lớp trong xã hội. Hoạt động này cũng khiến cho các sinh hoạt của lễ hội Đền Hùng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
- Xây dựng thêm các điểm du lịch mới, hình thành các tour tuyến du lịch, đa dạng hóa du lịch để hỗ trợ cho du lịch tâm linh.
Xét ở một khía cạnh nhất định, việc đi du lịch không đơn thuần chỉ vì 1 mục đích đơn nhất. Du khách đến với Đất Tổ để bày tỏ lòng thành kính tổ tiên cũng có thể sẵn lòng đến với các danh lam, thắng cảnh của địa phương. Đa dạng hóa cách thu hút du khách chính là cách tốt nhất đối với Phú Thọ để giữ chân du khách và tăng thu nhập cho địa phương.
- Triển khai phong trào xây dựng con người Đất Tổ trong đó nhấn mạnh đến các phẩm chất thân thiện, cởi mở để đón tiếp mọi người đến với quê hương cội nguồn dân tộc.
Hành vi của con người là sự biểu hiện cụ thể nhất của văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín (Ban Chấp hành Trung ương khóa XI) đã nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người; con người vừa sản sinh ra văn hóa, đồng thời cũng là sản phẩm của văn hóa. Đối với Phú Thọ, ngoài những phẩm chất cần có của con người Việt Nam như tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội thì người Phú Thọ cũng cần xây dựng thêm những phẩm chất để thể hiện là người con Đất Tổ, như người con trưởng, giữ hương hỏa tổ tiên, luôn thân thiện, cởi mở để đón tiếp đồng bào về với quê hương cội nguồn. Sự thể hiện đó của người dân Đất Tổ sẽ tạo nên sự thiện cảm đối với quê hương Phú Thọ, và từ tình cảm ấy, giúp nâng cao hình ảnh của Đất Tổ Vua Hùng.
Xây dựng thương hiệu văn hóa không chỉ giúp cho sự phát triển văn hóa nói riêng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội tổng thể nói chung. Khi Phú Thọ tạo dựng được thương hiệu văn hóa Đất Tổ của mình cũng đồng thời tạo ra được sự yêu mến đối với mảnh đất đặc biệt của nước Việt Nam này. Sự yêu mến con người, vùng đất đó có thể chuyển tải thành các vốn về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục khác cho Tỉnh. Tạo ra các nguồn lực để Tỉnh phát triển. Đó là tác động lan tỏa đối với sự yêu mến một thương hiệu mà nhiều địa phương, đất nước đã và đang thực hiện.
Tuy nhiên, xây dựng thương hiệu Đất Tổ là một hoạt động cần đòi hỏi có nhiều nỗ lực, thực hiện bền bỉ trong thời gian lâu dài cũng như sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ban ngành, của cả địa phương với Trung ương. Bên cạnh việc xây dựng là việc giữ gìn thương hiệu ấy. Đây cần được xem là một nhiệm vụ chính trị của cả Tỉnh để tạo ra sức mạnh mềm cho quê hương Đất Tổ.
Tác giả bài viết: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
___________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020.
2. Phùng Hữu Phú, Đinh Xuân Dũng (đồng chủ biên) (2015), Văn hóa - sức mạnh nội sinh của phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.
3. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) (2013), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.